Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn

QUỸ BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG VIỆT NAM

Ơn cái rừng

Báo Đại Đoàn Kết |

Ông Giàng A Lau - Trưởng bản Khao Mang, xã Khao Mang (huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái) cho biết: "Cả bản mình có 60 hộ nhận khoán bảo vệ hơn 200 ha rừng tự nhiên.

 Hàng năm ngoài tiền chương trình Nhà nước hỗ trợ bảo vệ rừng 190 nghìn đồng/ha, lại có thêm thu nhập từ tiền dịch vụ bảo vệ môi trường rừng nên bà con phấn khởi lắm.
Chúng tôi đã tuyên truyền cho bà con  biết giữ rừng là giữ được nhiều nguồn nước cung cấp cho các nhà máy thủy điện thì sẽ có nhiều tiền hơn nữa, đời sống bà con sẽ không còn phải bữa đói, bữa no…”.
Đó là câu chuyện về "lấy rừng nuôi rừng” của bà con xã Khao Mang. Sau gần 4 năm triển khai thực hiện Nghị định 99/2010/NĐ-CP về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng đã tạo ra những chuyển biến rõ rệt trong việc huy động nguồn lực xã hội phục vụ công tác bảo vệ rừng, cải thiện sinh kế cho người dân.
Phần lớn các tổ chức, cá nhân sử dụng dịch vụ môi trường rừng đã thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của Nghị định số 99/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng.
Đây cũng là bước ngoặt quan trọng đánh dấu sự chuyển biến tích cực trong việc giúp người dân nhận khoán, khoanh nuôi, bảo vệ rừng được hưởng lợi, nâng cao thu nhập.
Một người dân trong xã chia sẻ: "Cái rừng không chỉ chở che cả ngàn đời cho người dân chúng tôi mà còn ngăn lũ kéo về bản làng bảo vệ bình yên cho từng thôn bản… mà giờ đây rừng còn giúp bà con có thêm nguồn thu nhập ổn định, giúp cho con em mình có cơ hội đến trường học cái chữ. Mình ơn cái rừng nhiều lắm”.
Nghe chuyện này mà thấy mừng cho người dân vùng cao. Mặc dù cuộc sống của bà con đã có nhiều đổi thay từ sự quan tâm của các cấp từ Trung ương tới địa phương với nhiều chương trình, dự án… nhưng vẫn còn vô vàn khó khăn.
Nguồn thu ít ỏi từ những buổi chợ phiên khi bán đi con gà, con lợn, bó măng… cũng chỉ để thêm thắt chi tiêu. Thế nhưng giờ đây, nguồn thu từ rừng có thể nói là nguồn thu bền vững.
Theo đó, người trả tiền là tất cả các tổ chức, cá nhân gồm: Các cơ sở sản xuất thủy điện, các cơ sở sản xuất và cung ứng nước sạch, các cơ sở sản xuất công nghiệp có sử dụng nước trực tiếp từ nguồn nước, các tổ chức, cá nhân có kinh doanh dịch vụ du lịch có hưởng lợi từ dịch vụ môi trường rừng…
Người nhận tiền dịch vụ môi trường rừng là các tổ chức, cá nhân có cung ứng dịch vụ môi trường rừng như các chủ rừng được Nhà nước giao rừng, cho thuê rừng để sử dụng ổn định và lâu dài vào mục đích lâm nghiệp và các chủ rừng là tổ chức tự đầu tư trồng rừng trên diện tích đất lâm nghiệp được giao; các chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao rừng, cho thuê rừng, cộng đồng dân cư thôn tự đầu tư trồng rừng trên diện tích đất lâm nghiệp được Nhà nước giao…
Hiện 6 tỉnh vùng Tây Bắc (Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái) đều đã thành lập và đi vào vận hành đầy đủ Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng cấp tỉnh, đến nay đã từng bước thực hiện chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng đến tận tay người dân.
Cùng với các dự án, chương trình giúp vùng cao ngày càng khởi sắc thì dịch vụ môi trường rừng không chỉ góp phần nâng cao nhận thức của toàn xã hội về giá trị phòng hộ của rừng mà còn tạo thêm nguồn thu nhập, góp phần nâng cao đời sống của người trồng rừng.  
Báo Đại Đoàn Kết